Luật sư Phan Anh
TƯỞNG NHỚ PHAN ANH
Hoàng Xuân Hãn (trích "Phan Anh một niềm tự hào của tri thức Việt Nam" của NXBCTQG ST - 2014. Trang 357)

Luật Sư Phan Anh

 

Sau những năm các phong trào thanh niên cách mạng bùng nổ (1929-1931), chính quyền thuộc địa thấy cần phải nới rộng trung học và đại học tại Đông Dương. Dân ta hiếu học đã hưởng ứng ngay. Tại Hà Nội, các trường công, tư đào tạo từng lớp thanh niên đủ kiến thức tài năng để dự học các trường đại học: Khoa y, khoa dược, khoa luật. Kết quả là kề trước cuộc Đại chiến 1939 tại Âu châu và nhất là cuộc Đại chiến Thái Bình Dương, ở nước ta sẵn có một thế hệ thanh niên trí thức, có đủ tài cán chuyên nghề, nhiều lòng muốn phục vụ Tổ quốc. Họ sau này sáp nhập với nhóm cách mạng bây giờ hoặc đang bị giữ trong lao tù, hoặc đang náu tiếng với nhân dân, để gây một phong trào yêu nước vô song từ bàn tay trắng mà chống nổi mọi cuộc ngoại xâm.

Chính Phan Anh thuộc thế hệ ấy. Sau khi tốt nghiệp khoa Luật tại Hà Nội, anh đã tới Paris, soạn các đề tài về luật hiến pháp và ngoại giao, để tính đường tương lai giảng dạy luật khoa. Những năm 1939, tình hình Âu châu nguy ngập. Anh cùng các bạn du học phải trở về nước. Chẳng bao lâu, nhân Pháp bị bại trận, Nhật Bản tăng áp lực đối với Đông Dương, chính quyền ở đây muốn lấy lòng trí thức, phải cho người bản xứ hành nghề luật sư. Nhờ vậy Phan Anh mới vào tập sự nghề luật sư tại một văn phòng cạnh Nhà lao Hỏa Lò, khá gần nhà tôi.

Tôi thuộc vào lớp hơi sớm hơn anh. Năm 1936, tôi đã từ Pháp về dạy khoa Toán tại Trường Bưởi, trường mới được mang huy hiệu Lycée. Bấy giờ hiếm giáo sư cho nên tôi phải phục vụ nhiều lớp, nhiều trường. Chung quy tôi không có thời giờ tiếp xúc nhiều với thế hệ Phan Anh. Và tình hình chiến tranh tại Âu châu, tư thế quân đội Nhật Bản tại Đông Dương thúc giục tôi phải để tâm hoàn thành và công bố công trình mà tôi đã ôm ấp trong gần 10 năm: Danh từ khoa học. Bấy giờ lòng ái quốc nồng nàn của nhân dân, nhất là của thanh niên đã bộc lộ. Một hôm, Phan Anh tới tìm tôi và bày tỏ ý kiến của một nhóm trí thức trẻ muốn ra một tờ tạp chí, đặt tên là Thanh Nghị1, hỏi ý tôi nên bàn luận thế nào và mời tôi cộng tác. Tôi đã đáp rằng: “Bây giờ trăm mắt đổ xô vào hành động của thanh niên trí thức ta: Quốc dân, chính quyền, thực dân Pháp và cả quân sát nhân Nhật. Tuy trong thực tế mình không có quyền chính trị, nhưng hãy cứ tự coi mình như con dân một nước độc lập. Đối với mọi việc đáng suy nghĩ, thì cứ nêu lên mà bàn với tư tưởng mới, thực tế. Chắc rằng tòa kiểm duyệt cũng không cấm viết, mà độc giả sẽ dần quen với những suy nghĩ đúng đắn và trách nhiệm (Phan Anh đồng ý). Vì tôi nghĩ một dân tộc độc lập phải có đủ danh từ để biểu diễn mọi ý về văn hóa. Vì lẽ ấy, tôi đã soạn một tập Danh từ khoa học và đang bàn với anh em khoa học cho ra một tạp chí khoa học, nó là bổ túc cho Thanh Nghị của các anh. Nhưng cũng vì thế mà tôi không có thời giờ viết thường xuyên giúp anh về khoa học. Trái lại, sở thích riêng của tôi là sử và cổ văn. Tôi nhận thấy có nhiều khả năng góp phần này. Nếu tôi có những điểm mới thuộc các đề tài ấy, tôi sẽ đăng vào tạp chí của các anh”1.

Từ đó, chúng tôi thành bạn thâm giao, một lẽ nữa là các nội nhân chúng tôi là đôi bạn đồng môn và đồng nghiệp. Trong non bốn năm liền, thỉnh thoảng tôi rảo bước trên phố Trường Thi, quay sang phố Quán Sứ, đến góc phố Hàng Bông - Thợ Nhuộm, nhìn xuống một cửa sổ dưới thấp, nếu thấy một cái đầu tóc cắt vuông đang cúi xuống bàn trên các hồ sơ thì biết đó là Phan Anh đang làm việc. Tôi xuống gõ cửa bước vào, anh đứng dậy, mắt cười, rồi chúng tôi bàn tán chuyện nước nhà và chuyện thế giới. Mà thực vậy. Tương lai chúng ta chắc chắn đổi nhiều! Thế Pháp đã tàn. Thế Nhật đầu bùng, sau xẹp. Đức chắc sẽ thua, Mỹ đã tiến về phía Tây chiếm lại Philippin, chắc chẳng bao lâu nữa sẽ đổ bộ vào đất ta. Các nước thực dân cũ trên Đông Nam Á như Anh, Mỹ, Hà Lan đều đã hứa độc lập cho các thuộc quốc mất vào tay Nhật. Nhờ hiệp ước cùng bảo vệ Đông Dương ký vào giữa năm 1941 mà quân đội Nhật và Pháp vẫn đụng nhau trên đất nước ta. Tổng thống Mỹ dọa cắt quyền của Pháp sau khi giải phóng Đông Dương. Trong những lúc được mời tiếp xúc hoặc với Toàn quyền, Đô đốc Decoux, hoặc với thủ lĩnh kháng Nhật - Trung tướng Mordant, tôi chỉ nghe họ khuyên trí thức ta đừng nghe những lời hứa của Anh - Mỹ. Trong lúc ấy, họ không giấu nổi sự dự bị đón tiêp quân Đồng minh. Phan Anh và tôi cùng nhau phân tích quân Pháp và quân Mỹ có thể đổ bộ cứu quân Pháp ở đây. Nếu quân Pháp không được cứu, thì chắc rằng Nhật sẽ đem Kỳ ngoại hầu Cường Để từ Nhật Bản về và đảng Ngô Đình Diệm sẽ cáng đáng lâm thời vận mệnh nước trước lúc hòa bình. Nhưng nếu Mỹ đổ bộ cứu Pháp thì ắt Nhật ở đây sẽ thua.

Bấy giờ cơ cấu thuộc quốc vẫn nguyên mà mình không vũ lực thì sẽ mất một cơ hội độc lập như đã mất cơ hội đại chiến trước, cuộc Khởi nghĩa Duy Tân hỏng vì nội phản, việc tiếp nhận Phục Việt hỏng vì bất lực, còn bản yêu sách độc lập của Nguyễn Ái Quốc trước nhân viên Hội nghị hòa bình Versailles thì cũng chỉ có tính cách tượng trưng. Trong phòng giấy nhỏ ở cạnh Hỏa Lò, tôi đã ngỏ những thắc mắc lo lắng ấy. Vào cuối năm 1944, tại thành phố Hà Nội đã có những việc rải truyền đơn hô khẩu hiệu cách mạng, kêu gọi nhân dân đánh Nhật, đánh Pháp; ngoài đường lại có một vài vụ phá cột đèn, phá điểm điện thế. Tôi lại bảo Phan Anh:

Mặc dù Pháp đàn áp, nhưng đảng cách mạng vẫn còn tổ chưc. Nghe nói Liên hợp quốc - Cộng Trung Quốc và cố vấn Mỹ cung cấp vũ khí cho ta để đánh Nhật. Nếu sự ấy là thật, thì may ra ta cũng sẽ dự phần chiến thắng Nhật, và có cớđòi lại độc lập cho ta. Trong nhóm Thanh Nghị nghe nói có người trong đảng. Vậy ngoài tuyên truyền, mặc dù là vũ trang, cách mạng có thực lực cơ bản gì không?”.

Phan Anh chỉ cười mà đáp rằng: “Tôi cũng nghe như vậy”.

Chúng tôi chẳng lấy làm lạ khi nghe tiếng súng nổ suốt đêm 9-3-1945, và rạng ngày sau, các đài truyền thanh cho hay rằng quân đội Pháp tại Đông Dương đã bị Nhật giải giáp. Sự lạ là không thấy Mỹ phản ứng giúp Pháp và Nhật không đưa Cường Để về. Trái lại, Chính phủ Nhật sai sứ thần tới Huế chuyển lời Chính phủ Nhật Bản cho vua Việt Nam rằng chính quyền thuộc địa Pháp đã bị khử trừ và nếu Việt Nam tuyên bô" độc lập, thì Chính phủ Nhật Hoàng thừa nhận. Hơn một tuần sau, chúng tôi mới được tin rằng Bảo Đại đã tuyên bố Việt Nam độc lập, quyết định tự cầm quyền với tôn chỉ “Dân vi quý” và kêu gọi tất cả nhân dân hỗ trợ.

Ngày 23 tháng ấy, một viên lãnh sự Nhật tới đưa tôi ba bức thư; một gửi cho tôi, hai thư kia nhờ tôi chuyển hộ. Những thư này do Văn phòng vua ở Huế nhờ sứ quán Nhật chuyển, mời Vũ Văn Hiền, Phan Anh và tôi vào Huế để bàn cùng Bảo Đại nên thực hiện độc lập tương lai cho nước bằng cách nào. Sau khi gặp nhóm Thanh Nghị, Hiền và Anh bằng lòng cùng tôi đáp lời rồi cùng đi. Bấy giờ ở Huế, cũng như khắp nước lòng ái quốc của nhân dân lên cực độ. Cho đến nhà văn cũng chịu ảnh hưởng chung. Vậy đã có thư mời nhiều trí thức, nhiều chính khách có tiếng, ngoài những người đang bị lao tù. Nhất là việc mời một số nhân vật mà quân đội Nhật đã giấu để khỏi bị công an thực dân bắt, như Trần Trọng Kim và Ngô Đình Diệm. Nhưng quân đội Nhật không chuyển thư mời cho Diệm, vì Diệm chủ trì đưa Cường Để thay Bảo Đại, mà Nhật lại không muốn có chuyện xáo trộn trên đất Việt Nam. Tuy vậy Kim, Hiền, Anh và tôi đồng ý rằng: Thế Nhật Bản chỉ còn đứng được hơn một năm là cùng. Chính phủ nào bắt đầu từ bây giờ cũng chỉ có chừng này để củng cố thế độc lập của nước ta mà thôi. Vậy nên khuyên nhà vua mời Ngô lập chính phủ vì y được người Nhật tin và nhóm “thân Nhật” ủng hộ. Không ai bảo ai, những người được mời đều khuyên Bảo Đại như vậy. Đổng lý Văn phòng vua lúc bấy giờ là Phạm Khắc Hòe, tuy thuộc quan trường bảo hộ, nhưng có “óc tân tiến”, lại là dây liên lạc giữa Bảo Đại với thanh niên và nhiều chính khách yêu nước ở Huế. Hòe lại viết thư cho Diệm, nói nhà vua mời về lập nội các. Lần này Nhật chịu chuyển thư nhưng Diệm từ chối, lấy cớ bệnh không về. Cuối cùng Trần Trọng Kim tuy còn ôm, phải nhận lời Bảo Đại năn nỉ ra thiết lập một chính phủ cách tân, trong ấy Phan Anh phụ trách Bộ Thanh niên để tránh tiêng Bộ Quôc phòng vì chưa có bộ đội và không muôn ai hiểu lầm và lợi dụng. Còn mục tiêu chung thì gấp rut trong khoảng một năm, tập cho quốc dân quen với tính cách độc lập, tự tin để đên khi hòa bình trở lại, Đồng minh không có cớ đặt ách ngoại trị vào cổ dân ta. Trong khoảng ba tháng, Phan Anh đã lập được tại nhiều tỉnh những thanh niên đoàn học tập võ nghệ, và nhất là lập được tại Huế một trường võ bị cao cấp, gọi là Trường Thanh niên tiền tuyến để một sô sinh viên đại học cũ tập thành sĩ quan. Chính phủ lại yêu cầu quân đội Nhật trả lại những khí giới đã tịch thu và thả ra những quân nhân người Việt để họ huấn luyện thanh niên học tại các trường võ bị.

Tuy biết rằng chúng tôi chỉ nhận nhiệm vụ mang tính cách tạm thời, nhưng chính phủ và tất cả nhân viên say sưa với công việc, tranh thủ với thời gian. Nhưng thế Nhật tan chóng hơn mình đoán. Chính phủ toan từ chức để nhà vua có thời gian họp những người cách mạng chống Nhật phòng khi đối thoại với Đồng minh. Đầu tháng 7, Nguyên soái Nhật - Trung tướng Suchinachi báo tin muôn trao trả chính quyền Nam Bộ, Bắc Bộ và sự quản lý các công vụ Đông Dương cũ. Một nửa chính phủ ra Hà Nội, đi cùng Thủ tướng. Đến nơi Hiền và Anh được các bạn Thanh Nghị cho hay rằng phong trào cách mạng chống Nhật đã bành trướng từ Cao Bằng đến vùng Bắc Kạn, Thái Nguyên, không đợi lâu được, chính phủ đã trở về Huế để lo việc tiếp thụ chủ quyền Nam phần. Tôi phải trở lại Hà Nội, tiếp tục thu nhận cơ quan đại diện. Trước lúc từ giã Phan Anh, tôi dặn các sự đã bàn tôi sẽ đồng tình từ chức và chuyển những người cách mạng sẵn sàng lập chính phủ mới. Nhưng chiến cục chiến tranh Thái Bình Dương dồn dập. Bom nguyên tử ném vào đất Nhật, Nhật Hoàng ra lệnh cho quân đội mình đầu hàng. Có tin quân đội Anh và Trung Quôc đã vào Việt Nam nhận sự đầu hàng của quân Nhật. Ở Bắc phần, Khâm sai Phan Kế Toại từ chức, đảng Việt Minh kháng Nhật ra lệnh Tổng khởi nghĩa. Lãnh tụ Hồ Chí Minh về Hà Nội. Hành động cuối cùng của Chính phủ Huế là giúp nhà vua, đại diện chính thức quốc tế của Việt Nam đánh điện cho Chủ tịch năm nước Đồng minh yêu cầu nhìn nhận sự độc lập đã thành của đất nước.

Ngày 28-8, Hồ Chí Minh chính thức thành lập chính phủ cách mạng đầu tiên, trong đó ít ra cũng có ba, bốn người bạn của Phan Anh trong nhóm Thanh Nghị. Trong Nam, nhờ quân Anh giúp, quân Pháp chiếm lại Sài Gòn rồi đánh ra miền Bắc. Những sĩ quan đầu tiên điều khiển cuộc Nam tiến là những cựu học viên Trường Thanh niên tiền tuyến lập bởi Phan Anh. Quân Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào miền Bắc để tiếp thu vũ khí của quân Nhật. Những người Việt chống Pháp từ trước lưu vong nay theo về, với danh nghĩa Quốc dân Đảng và Đồng minh Hội. Họ được quân Tưởng Giới Thạch hỗ trợ để tranh quyền với Chính phủ lâm thời. Một mặt khác quân Pháp đã được quân Tưởng Giới Thạch bằng lòng cho ra Bắc thay thế mình. Muốn ngăn cản quân Pháp thì Chính phủ lâm thời bất lực, muốn điều đình để đợi thời thì phải có hòa khí bên trong. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã cấp tôc tổ chức bầu Quốc hội, dành riêng cho các đảng quốc gia 70 ghế và ngày 2-3 nhóm họp Quốc hội để giải tán Chính phủ Việt Minh lâm thời. Một Chính phủ liên hiệp kháng chiến được thành lập với một số nhân vật tượng trưng “quôc gia”: Nguyễn Hải Thần (Phó Chủ tịch), Huỳnh Thúc Kháng (nội vụ), Nguyễn Tường Tam (ngoại giao), Vĩnh Thụy (tức Bảo Đại – cố vấn) và Phan Anh giữ Bộ Quốc phòng (có lẽ vì Phan Anh đã từng giữ Bộ Thanh niên dưới triều Bảo Đại).

Phan Anh tìm tôi để bàn chuyện. Anh cho biết rằng tình hình trong nước rất bối rối. Tại Trùng Khánh, Tưởng Giới Thạch đã bán rẻ Bắc Kỳ cho Pháp và đang ép ta nhận các điều kiện Pháp đưa ra để đem quân ra Bắc. Anh - Mỹ không bênh ta vì họ cần Pháp ở Âu châu để chống Nga. Các người đảng quốc gia thì không tự lượng sức mình, cứ tưỏng có thể mượn sức quân Tưởng ngăn Pháp đổ bộ. Nghe nói có hôm Lư Hán (tướng Vân Nam) toan bắt Cụ Hồ, và có lúc Cụ Hồ đã chủ trương cùng Bảo Đại đổi chức năng chủ tịch chính phủ và cố vấn cho dễ điều đình. Anh nói: “Chính trị phải thực tế. Chi bằng toàn quân đoàn kết tùy sức mình mà ký với Pháp hiệp ước thuận lợi nhất để tồn tại và điều đình kiên trì về sau”.

Anh cũng đồng ý với tôi chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ là tượng trưng. Bộ đội ở trong tay Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Như thế là hợp ý trong trường hợp này. Bây giờ chỉ có Việt Minh mới có điều kiện thực tế để tổ chức gấp một đội quân làm hậu thuẫn cho Chính phủ chống thực dân, có phương tiện tổ chức du kích khắp thôn quê nếu quân Pháp muốn đặt ách đô hộ trở lại. Liền sau đó, ngày 6-3, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh (Quốc dân Đảng) ký với Sainteny hiệp ước để quân đoàn Leclerc đổ bộ lên Hải Phòng đáp lại lời hứa của nươc Pháp nhận Việt Nam là một nước tự do, có chính phủ riêng, có quốc hội riêng, có quân đội riêng và có tài chính riêng, nhập phần Liên bang Đông Dương vào Liên hiệp Pháp, về điều thống nhất ba kỳ thì Chính phủ Pháp cam đoan chấp nhận quyết định của những dân tộc sẽ được trưng cầu ý kiến.

Quân Pháp lập tức đổ bộ lên bến Hải Phòng mặc dù bị một nhóm bộ đội Trung Quốc đột kích. Chỉ một mình tướng Giáp và Phan Mỹ, em ruột Phan Anh, tiếp xúc với Leclerc. Bắt đầu từ ngày 18-3, quân đội thiết giáp Pháp ồ ạt thị oai ở các đường phố Hà Nội. Bấy giờ ai cũng nhận thấy rằng chính phủ mình, cộng hòa hay quân chủ, quốc gia hay cộng sản, nếu không có quân đội nghiêm túc, nhân dân ủng hộ, ngoại giao khôn khéo thì cánh thực dân sẽ lập lại chế độ thuộc địa như xưa. Bấy giờ đã hay tin rằng Đô đốc d’Argenlieu với đoàn cố vấn hành chính không đồng ý “rộng rãi” với Đại tướng Leclerc và tay mật vụ Sainteny. Hồ Chí Minh quyết định bước sang giai đoạn điều đình cấp tốc với Chính phủ Pháp. Hiền và tôi đi dự Hội nghị trù bị Đà Lạt với Nguyễn Tường Tam và Võ Nguyên Giáp làm trưởng và phó phái đoàn (từ ngày 1-4 đến ngày 11-5-1946). Trù đây là trù bị cho hội nghị chính thức tại Paris định họp vào mùa hè năm ấy. Đã dự bị Nguyễn Trường Tam và Phạm Văn Đồng làm trưởng và phó phái đoàn. Vũ Văn Hiền và Phan Anh sẽ là chân quan trọng. Nhưng d’Argenlieu định phá hội nghị, ông ta đã bịa ra Hội nghị trù bị để có thời giờ lập nước Nam Kỳ tự trị, rồi họp một Hội nghị Đà Lạt thứ hai (1-8) với các nước Miên, Lào, Nam Kỳ... Những chính khách Quốc dân Đảng và Đồng minh Hội đều bỏ chức và trốn tránh sang Trung Quốc. Nguyễn Tường Tam không đi dự Hội nghị Paris nữa. Vũ Văn Hiền bị bệnh cũng không đi. Ngày 31-5, Phan Anh từ giã tôi, theo Chủ tịch nước ta và phái đoàn điều đình lên máy bay đi Pháp, mặc dù d’Argenlieu muốn hoãn chuyến đi này lại vì Pháp chưa có quốc hội, chưa có chính phủ chính thức.

Khi Chủ tịch và phái đoàn ta tới đất Pháp, họ phải đợi ở miền Nam nước Pháp “du lịch” chung quanh Biaritz đến gần cuối tháng 6, sau khi những đảng hữu thắng trong cuộc bầu cử ngày 2-6 và G. Bidault thành lập chính phủ. Chủ tịch phải đợi đến ngày 22-6 mới lên Paris và được tiếp đón long trọng. Còn các phái viên như Phan Anh thì lên Paris sớm, kẻ tham quan phong cảnh, người nối dây liên lạc. Phan Anh chú ý về sở học của mình là luật khoa. Muốn làm bớt uy thế của Việt Nam và tranh ảnh hưởng của các tả đảng Pháp, chính phủ G. Bidault quyết định hội nghị họp tại Fontainebleau. Hội nghị bắt đầu ngày 6-7. Trưởng phái đoàn ta là Phạm Văn Đồng, tổng báo cáo viên là Phan Anh. “Anh lại là chân lý luận chắc chắn, biện từ sắc bén, thân hình thấp nhưng dày dặn, đầu tóc vuông vắn. Bấy giờ các nhà báo có kẻ chú ý đến Phan Anh, và nói đùa Phan Anh là một cái lon thuốc hút (Pot à tabac) nhưng mà thuốc cay đậm”.

Rồi Hội nghị này cũng như Hội nghị Đà Lạt: Thất bại và ta không thể chịu ách nặng Liên bang Đông Dương và nhất là không thể chịu để lìa tách Nam Bộ. Phái bộ đành bỏ dở hội đàm ra về. Xuống tàu Pasteur ngày 14-9 để Chủ tịch Chính phủ ta ở lại ký với Moutet - Bộ trưởng Hải ngoại một “tạm ước” trước khi ra về. Ngày 19-9, Chủ tịch Hồ Chí Minh xuống tàu binh đi Đông Dương; ngày 18-10 hội đàm với d’Argenlieu ở vịnh Cam Ranh. Ngày 20-10 về đến Hà Nội. Trong gần 5 tháng Chủ tịch Hồ Chí Minh đi vắng mà chỉ trở về với một tạm ước kém hiệp ước tháng 3. Trong nước phái thực dân lấn áp nhân dân, thành lập Nam Kỳ tự trị, chiếm các vùng dân tộc thiểu số, một vài điểm chiến lược hay kinh tế như tỉnh lỵ Lạng Sơn, Bắc Ninh, phủ toàn quyền, tòa tài chính và tự thu quan thuế tại Hải Phòng.

Cụ Chủ tịch vẫn giữ thái độ trấn tĩnh. Nhưng các nhân viên sau 5 tháng ở Pháp về với nhiều nỗi lo âu và thất vọng. Coi chừng mỗi người phải quyết đi vào một chí hướng. Tôi còn nhớ khi gặp thi sĩ Xuân Diệu, đại biểu báo chí vừa về, anh báo với mọi người: “Có nhiều thể chế cộng hòa, ta phải liệu chọn”. Phan Anh, về hình thức vẫn là Bộ trưởng Quốc phòng, chắc đã được tướng Giáp, nhất là Phan Mỹ cho biết rõ tình hình nguy ngập về võ bị. Tôi phải đợi đến hôm Cụ Chủ tịch về, chiêu đãi thân sĩ mới có dịp gặp lại Phan Anh. Tôi cũng được mời vì là nhân viên Hội nghị Đà Lạt. Bước vào phòng khách, tôi thấy người kết cụm trò chuyện xôn xao. Trông sang một góc buồng, thấy Phan Anh ngồi một mình với một cuốn sách ở tay. Tôi đùa đọc câu Kiều “Chi bằng riêng một biên thùy”. Anh vội mỉm cười và bảo: “Chớ đọc nối câu sau”. Chúng tôi đều biết đến câu sau “Sức này đã dễ làm gì được nhau”. Tôi hiểu ý của anh, nhưng tôi cũng đùa đáp: “Sao lại sợ? Đó là lời phái đoàn ta phải nói với Pháp”.

Câu nói ấy là ngẫu nhiên, chứ bấy giờ tôi chưa biết lời tướng Salan đã bảo Hoàng Minh Giám sau khi ta từ chối mọi điều ức hiếp của Pháp rằng: “Sự đã rõ ràng, chỉ còn cách đánh nhau giữa chúng ta”.

Sau đó, tôi gặp anh nói chuyện lâu. Anh cho hay rằng mình tưởng có thể dựa vào các tả đảng ở Pháp để dễ điều đình hơn. Nhưng họ còn khắc nghiệt hơn cả hữu đảng vì trong khi tranh giành bầu cử, họ sợ mang tiếng đã phá sản quyền lợi quốc gia. Kết luận là sự nhượng bộ trước áp lực thực dân cũng chưa đủ, sự hòa giải giữa các đảng phái trong nước cũng chỉ làm yếu tổ chức binh bị. Vì vậy một chính phủ mới được thành lập, thải những phần tử tượng trưng. Võ Nguyên Giáp trở lại Bộ Quốc phòng. Ấy là vào ngày 3-11- 1946. Từ đó đến tháng 5-1954, tôi không gặp lại Phan Anh nữa. Từ bây giờ, cánh thực dân và cánh quân nhân nhất quyết lập lại chính quyền Pháp trên đất Việt. Họ dùng phép “làm trước cãi sau” mà lấn dần dần, để cho ta phản ứng lại thì ta thành khiêu khích. Bấy giờ họ sẽ dùng vũ lực là thanh toán “dễ dàng” vấn đề Việt Nam. Ngày 20-11, vịn vào việc tranh châp quan thuế ở Hải Phòng, tướng Valluy đã tàn sát và chiếm thị trấn, dân Hà Nội sợ bị tập kích như vậy, nên phần lớn tản cư. Tôi không biết Phan Anh đi về đâu. Hai bộ đôi sợ nhau, nên hành động bảo vệ bị coi là hành động khiêu khích1. Trong tinh thần ấy, chiến tranh Pháp - Việt bùng nổ từ tối ngày 19-12. Năm sau, tôi mới biết Phan Anh đã lên Chiến khu Việt Bắc với Cụ Hồ.

Bài viết liên quan
06/09/2020
LUẬT SƯ PHAN ANH

Của NXBCTQG ST - 2014. ( trích "Phan Anh một niềm tự hào của tri thức Việt Nam". Trang 5)

06/08/2020
LUẬT SƯ PHAN ANH

Phạm Quốc Anh - Nguyên Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam (trích "Phan Anh một niềm tự hào của tri thức Việt Nam" của NXBCTQG ST - 2014. Trang 9)

06/08/2020
PHAN ANH – ANH PHAN

Vũ Đình Hòe (trích "Phan Anh một niềm tự hào của tri thức Việt Nam" của NXBCTQG ST - 2014. Trang 351)

06/08/2020
PHAN ANH - Nhân nhượng hưng quốc gia

Trích "gương mặt những người cùng thế hệ", tác giả Vũ Đình Hòe

05/21/2020
BỘ TRƯỞNG QUỐC PHÒNG - PHAN ANH

Luật sư Phan Anh sinh năm 1911, tại Tùng Ảnh (Đức Thọ, Hà Tĩnh), một địa danh nổi tiếng, giàu truyền thống yêu nước, sản sinh ra nhiều nhân vật lỗi lạc để lại dấu ấn không phai mờ trong lịch sử vinh quang của dân tộc.